Sự đa dạng của
động vật ở Việt Nam phản ánh sự phong phú của thực vật trong nước. Nhiều loại môi trường sống khác nhau tạo ra nhiều cơ hội cho các sinh vật phát triển vì nó cho phép chúng phân tách khỏi những loài khác bằng cách thay đổi nơi ở và thức ăn.
Và các môi trường phức tạp hơn, chẳng hạn như các khu rừng thường xanh, lá rộng, nhiều tầng của dãy Trường Sơn, còn cung cấp nhiều loại môi trường sống hơn để các loài có thể khai thác được. Tuy nhiên không phải tất cả các loại môi trường đều phong phú như nhau về số lượng các loài thuộc
các nhóm động vật khác nhau vì các đặc tính chung như nhậy cảm với nhiệt độ (cây dầu, họ Dipterocarpaceae), phụ thuộc vào môi trường nước để sinh sản (lưỡng cư, lớp Amphibia) và tính chịu khô hạn (một số loài thằn lằn, phân bộ Sauria), có thể hạn chế (hoặc mở rộng) các môi trường sống thích hợp cho các nhóm khác nhau.
Một khi đã thâm nhập thành công vào các môi trường sống, các điều kiện môi trường khắc nghiệt, như các ngọn núi đá vôi lộ thiên ở Đông Bắc Việt Nam, các loài sống ở đây thường có ít các sinh vật cạnh tranh hơn so với các môi trường sống ôn hoà hơn.
Mỗi nghiên cứu mới lại làm sáng tỏ thêm về các quần xã
động vật có xương sống và không xương sống tại Việt Nam. Sự hạn chế của những điều tra trước đây mà nhìn chung chủ yếu tập trung vào chim và thú, cùng với việc tăng rõ rệt của các nghiên cứu bắt đầu vào những năm 1990 cho thấy kiến thức hiện tại của chúng ta về sự phong phú và phân bố loài ở Việt Nam vẫn còn chưa đầy đủ.
Các giá trị về sự phong phú và tính đặc hữu của loài được đưa ra ở đây cần thiết phải thay đổi khi các loài mới được phát hiện cả trong tự nhiên cũng như trong các bộ sưu tập của bảo tàng và nơi giữ mẫu cây và khi phạm vi phân bố của các loài đã biết được xác định chính xác.
Những cảnh báo này đặc biệt đúng đối với các nhóm được coi là đặc hữu ở trong nước và con số này có lẽ sẽ thay đổi khi các nghiên cứu được tiến hành ở cả Việt Nam và các khu rừng và đồng cỏ ít được điều tra tại các nước láng giềng Lào và Campuchia.
Cuối cùng, các nghiên cứu (chủ yếu là di truyền) nhằm tìm hiểu các mối quan hệ về tiến hoá giữa các loài, giống và họ hoặc ở các bậc phân loại cao hơn sẽ có tác động đến một số trong các mối quan hệ này.
Thú
Thú là
nhóm động vật có xương sống được biết rõ nhất ở Việt Nam, sau chim. Nhiều loài, đặc biệt là những loài có kính thước cơ thể nhỏ, là loài hoạt động ban đêm, hoặc là sống trên cây hoặc là sống dưới mặt đất và dựa vào ngụy trang và tập tính để tránh động vật ăn thịt. Các đặc điểm này và, cho đến gần đây, sự quan tâm hạn chế trong việc điều tra thú nhỏ, dẫn đến những hiểu biết về các bộ thú khác nhau có khác sự biệt rất rõ rệt.
Mặc dù rất khác nhau về kích thước, hình dạng bên ngoài và tập tính, tất cả các loài thú đều có chung một đặc tính. Đặc điểm đặc trưng nhất là con cái có khả năng nuôi con non bằng sữa, làm giảm những tác động của dao động trong môi trường lên con non đồng thời tăng tốc độ lớn và phát triển của chúng.
Một đặc điểm nổi bật khác chúng thường có là bộ răng chuyên hoá trong đó răng (răng cửa, răng nanh, răng trước hàm và răng hàm) đã phát triển và thực hiện các chức năng khác nhau.
Việc sử dụng sữa có thể đã thúc đẩy sự tiến hoá của các răng chuyên hoá bằng cách giúp chúng và hàm tránh bị các áp lực về chọn lọc như thu lượm và chế biến thức ăn ngay sau khi sinh ra. Cả hai đặc điểm này đã đóng góp cho việc đa dạng hoá về mặt tiến hoá của nhóm này.
Cho đến nay, hơn 270 loài thú đã được thống kê ở Việt Nam, trong đó có 7 loài thú mới được mô tả, hầu hết chúng là các loài có kích thước lớn thuộc các nhóm hươu và linh trưởng (xem phần phụ lục 3). Mặc dù những loài thú mới khác có lẽ sẽ được tìm thấy ở Việt Nam, hầu hết những loài thêm vào danh mục thú của đất nước đã và sẽ là những loài đã được biết ở những nơi khác nhưng mới được phát hiện từ những quan sát đầu tiên ở trong nước.
Điều này đặc biệt đúng đối với các nhóm ít được biết đến như các loài ăn côn trùng (bộ Insectivora), dơi (bộ Chiroptera) và gặm nhấm (bộ Rodentia). Bên cạnh loài dơi tai Trường Sơn (Myotis annamiticus) mới được mô tả gần đây, 18 loài dơi mới được ghi nhận từ năm 1997 đến năm 2004. Những phát hiện này đã nâng tổng số các loài dơi ở Việt Nam lên đến gần 100, hoặc xấp xỉ một phần ba tổng số loài thú.
Sau dơi, các bộ có nhiều loài nhất ở Việt Nam là gặm nhấm (64 loài), ăn thịt (bộ Carnivora; 40 loài), linh trưởng (bộ Primates; 19 loài) và thú móng chẵn, trong đó có lợn, hươu và trâu bò rừng (bộ Artiodactyla; 18 loài). Việc chúng chiếm ưu thế ở Việt Nam phản ánh sự phong phú về loài của các nhóm này trên toàn cầu. Có số lượng loài ít hơn nhưng rất đặc biệt là các bộ chủ yếu phân bố ở vùng nhiệt đới của cựu lục địa, tê tê (bộ Pholidota; 2 loài) và đồi (bộ Scandentia; 2 loài). Các loài đặc hữu không phân bố đồng đều trong thú, với đa số là các nhóm có phân bố giới hạn tập trung ở linh trưởng (17), tiếp theo sau với số lượng ít hơn nhiều là thú móng chẵn (6) (xem phụ lục 2).
Trong số các quần xã thú nổi bật nhất của đất nước là nhóm các động vật ăn cỏ lớn và các
động vật ăn thịt đi kèm theo có phân bố ở các rừng dầu bán thường xanh và rụng lá một mùa ở vùng đồng bằng tại miền Trung và Nam Trung Bộ của Việt Nam, trong đó có voi (Elephas maximus); tê giác một sừng (Rhinoceros sondaicus annamiticus); hai loài bò rừng, bò tót (Bos gaurus) và bò rừng (B. javanicus); nai cà tông (Cervus eldii); nai (C. unicolor); và sơn dương (Naemorhedus sumatraensis). Phân bố cùng với các loài thú lớn này là động vật ăn thịt, trong đó có hổ (Panthera tigris), báo hoa mai (P. pardus), báo gấm (Pardofelis nebulosa), chó rừng (Canis aureus), và họ hàng đi săn theo đàn của chúng, chó sói lửa (Cuon alpinus).
Các quần thể thú này đã bị giảm số lượng đáng kể do săn bắn. Ba loài có phân bố tự nhiên trong môi trường sống này ở Việt Nam là bò xám (B. sauveli), trâu rừng (Bubalus arnee) và một phân loài của hươu vàng (Axis porcinus annamiticus) có lẽ là đã bị tuyệt chủng.
(Còn nữa)
Thanh Thảo (MOITRUONG.COM.VN/TH)