Theo đó, Nghị định hướng dẫn các nội dung liên quan đến cải tạo, phục hồi môi trường và ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường đối với hoạt động khai thác khoáng sản; Kiểm soát ô nhiễm môi trường đất; Bảo vệ môi trường làng nghề; Bảo vệ môi trường đối với hoạt động nhập khẩu, phá dỡ tàu biển đã qua sử dụng; Xác nhận hệ thống quản lý môi trường; Bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường; Xử lý cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; Ưu đãi hỗ trợ hoạt động bảo vệ môi trường; Cộng đồng dân cư
tham gia bảo vệ môi trường.
Từ ngày 1/1/2015, Luật Bảo vệ Môi trường 2014 chính thức có hiệu lực trong đó có những nội dung đã cụ thể hóa với nhiều điểm mới so với Luật
Bảo vệ môi trường năm 2005.
Luật Bảo vệ Môi trường 2014 gồm 20 chương và 170 điều – tăng 5 chương và 34 điều so với Luật Bảo vệ Môi trường 2005. Về cơ bản, Luật Bảo vệ Môi trường 2014 kế thừa các nội dung của Luật Bảo vệ Môi trường 2005; khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật Bảo vệ Môi trường 2005; đồng thời luật hóa chủ trương của Đảng, bổ sung một số nội dung mới về bảo vệ môi trường nhằm đáp ứng yêu cầu
bảo vệ môi trường trong giai đoạn mới.
Nội dung Luật Bảo vệ Môi trường 2014 đã cụ thể hóa tinh thần Điều 43 Hiến pháp 2013: “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”, với một số điểm mới cơ bản đó là quy hoạch bảo vệ môi trường. Đây là nội dung hoàn toàn mới của Luật Bảo vệ Môi trường 2014. Quy hoạch bảo vệ môi trường sẽ giúp chúng ta có cách nhìn tổng thể, dài hạn và chủ động triển khai công tác bảo vệ môi trường, thực sự gắn bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế, an sinh, xã hội và là cơ sở để điều chỉnh hoặc xây dựng các quy hoạch phát triển khác, đảm bảo phát triển bền vững.
Đáng chú ý, Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014 cũng quy định chương riêng về ứng phó với biến đổi khí hậu. Vì biến đổi khí hậu và nước biển dâng là vấn đề đang thách thức, ảnh hưởng lớn đến toàn cầu trong đó có nước ta. Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014 có một chương quy định về ứng phó với biến đổi khí hậu, để đáp ứng các yêu cầu cấp thiết về ứng phó với biến đổi khí hậu hiện nay, thể chế hóa một số nghị quyết của Đảng về nội dung này.
Ngoài ra, Luật còn bổ sung các quy định về tăng trưởng xanh, cơ sở, sản phẩm thân thiện với môi trường nhằm hướng tới sự phát triển bền vững; bổ sung các quy định về bảo vệ môi trường đối với các cơ sở nghiên cứu, phòng thí nghiệm. Bổ sung và làm rõ hơn trách nhiệm công bố thông tin về môi trường, về tình trạng môi trường, trách nhiệm báo cáo công tác quản lý môi trường của cơ quan nhà nước, v.v...
Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014 cũng có một chương quy định về bảo vệ môi trường biển và hải đảo, nhằm bảo đảm tính thống nhất và toàn diện của Luật Bảo vệ Môi trường. Chương này chỉ quy định những nội dung cơ bản, có tính nguyên tắc, không có sự trùng lặp với những nội dung dự kiến được xây dựng trong Luật Bảo vệ & Tài nguyên & Môi trường biển do Bộ Tài nguyên & Môi trường đang xây dựng.
Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014 còn bổ sung quy định nội dung quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong một điều riêng; quy định rõ trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên & Môi trường, Bộ trưởng và Thủ trưởng các cơ quan ngang bộ khác thay cho quy định cũ giao cho bộ, ngành . Đặc biệt là trách nhiệm xây dựng văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường.
Tải về văn bản
TẠI ĐÂY: